Giám sát sử dụng kháng sinh trong bệnh viện
Bộ Y tế đang có kế hoạch mở rộng 54 bệnh viện cấp tỉnh đưa vào chương trình giám sát kháng thuốc
Chia sẻ bên lề Mít tinh hưởng ứng “Tuần lễ Thế giới nâng cao nhận thức về kháng thuốc” và Hội thảo triển khai Kế hoạch hành động phòng, chống kháng thuốc lĩnh vực y tế giai đoạn 2024 – 2025 diễn ra tại Hà Nội sáng 22/11, Tiến sĩ, bác sĩ, Cao Việt Tùng, Phó Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương cho hay, tình trạng kháng kháng sinh gây ra nhiều thách thức trong công tác điều trị và tạo gánh nặng về chi phí điều trị cho bệnh nhân.
“Kháng kháng sinh trong bệnh viện gây ra nguy cơ thất bại điều trị rất cao và giá thành của thuốc điều trị cũng cao hơn rất nhiều lần. Một liệu trình điều trị thông thường khoảng 5-7 hoặc 10 ngày kháng sinh, nhưng với trường hợp kháng kháng sinh, quá trình điều trị có thể lên ba tuần kháng sinh”, bác sĩ Tùng nói.
Bệnh viện Nhi Trung ương có triển khai các chương trình giám sát kháng kháng sinh hàng quý để nhận định về mô hình vi khuẩn trong bệnh viện và tỷ lệ vi khuẩn đáp ứng với kháng sinh. Ảnh: BV Nhi Trung ương
Bệnh viện Nhi Trung ương có triển khai các chương trình giám sát kháng kháng sinh hàng quý để nhận định về mô hình vi khuẩn trong bệnh viện và tỷ lệ vi khuẩn đáp ứng với kháng sinh, để từ đó, các bác sĩ có phác đồ điều trị bằng kháng sinh phù hợp.
Với vai trò là bệnh viện chuyên khoa nhi tuyến cuối, bệnh viện đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người nhà bệnh nhân sử dụng kháng sinh theo đơn của thầy thuốc, không tự ý mua kháng sinh và tự chữa bệnh cho con.
Tại Hội thảo triển khai Kế hoạch hành động phòng, chống kháng thuốc lĩnh vực y tế giai đoạn 2024 – 2025, nhiều đại biểu đề xuất, trong các đợt đánh giá từ Cục Quản lý khám, chữa bệnh cần lồng ghép đánh giá về tình trạng kháng kháng thuốc để các bệnh viện cùng chú trọng đến vấn đề này.
Trao đổi về vấn đề này, Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Trọng Khoa, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh cho biết, hiện Bộ Y tế đang có kế hoạch mở rộng 54 bệnh viện cấp tỉnh đưa vào chương trình giám sát kháng thuốc. Các cơ sở y tế nếu không có khoa vi sinh đủ năng lực rất khó cung cấp dữ liệu kháng thuốc chính xác, vì thế nên cần phải có mục tiêu chiến lược là đầu tư các labor vi sinh nhằm nâng cao năng lực và hỗ trợ cho các địa phương.
Ông Khoa cũng nhận định, các cơ sở khám chữa bệnh đã thực hiện phòng, chống kháng thuốc nhưng chưa thật sự nghiêm túc. Trong đó, trách nhiệm của thầy thuốc trong kê đơn cũng rất quan trọng.
Cục Quản lý Khám, chữa bệnh đề xuất tới đây xây dựng tiêu chuẩn giám sát sử dụng kháng sinh trong bệnh viện và sử dụng hệ thống mạng lưới kê đơn điện tử để giám sát. “Nếu áp dụng bệnh án điện tử và nghiêm túc phê duyệt kê đơn và giám sát, nghiêm túc quản lý ca đa kháng ở bệnh viện, sẽ giảm nguy cơ kháng thuốc”, ông Khoa nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, ông đề xuất Sở Y tế các địa phương cần sớm trình UBND tỉnh xây dựng kế hoạch chống kháng thuốc của địa phương, phối hợp liên ngành để triển khai công tác phòng, chống kháng thuốc hiệu quả.
Theo Bộ Y tế, thuốc kháng vi sinh vật – bao gồm thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi-rút, thuốc kháng nấm và thuốc chống ký sinh trùng – là những loại thuốc được sử dụng để ngăn ngừa và điều trị các bệnh nhiễm trùng ở người, động vật và thực vật.
Kháng thuốc xảy ra khi các vi khuẩn, vi rút, nấm và ký sinh trùng thay đổi theo thời gian và không còn đáp ứng với thuốc kháng vi sinh vật, làm cho bệnh nhiễm trùng khó điều trị hơn và làm tăng nguy cơ lây lan bệnh, bệnh nặng và tử vong. Do đó, thuốc mất tác dụng và nhiễm trùng vẫn tồn tại trong cơ thể, làm tăng nguy cơ lây lan cho người khác.
Trên thế giới đã xuất hiện các vi khuẩn kháng với hầu hết kháng sinh, còn gọi là vi khuẩn siêu kháng thuốc. Nhiều yếu tố đã đẩy nhanh mối đe dọa kháng thuốc trên toàn thế giới – bao gồm việc sử dụng quá mức và không hợp lý thuốc ở người, vật nuôi và nông nghiệp, cũng như khả năng tiếp cận kém với nước sạch và vệ sinh.
Kháng thuốc là một mối đe dọa sức khỏe và sự phát triển toàn cầu, do đó cần phải hành động liên ngành khẩn cấp để đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs).
Bà Erin Kenny – Trưởng nhóm Chăm sóc sức khỏe toàn dân của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho biết, trong ngành y tế, kháng thuốc đe dọa nhiều thành tựu của y học hiện đại. Nó khiến các bệnh nhiễm trùng khó điều trị hơn và làm cho các thủ thuật và điều trị y tế khác như phẫu thuật, sinh mổ và hóa trị liệu ung thư trở nên nguy cơ hơn.
Kháng thuốc cũng tạo gánh nặng lớn về chi phí cho cả hệ thống y tế và nền kinh tế, ví dụ nó làm tăng nhu cầu chăm sóc tích cực và tốn kém hơn, ảnh hưởng đến năng suất lao động của bệnh nhân hoặc người chăm sóc thông qua thời gian nằm viện kéo dài và gây hại năng suất nông nghiệp.
Năm 2023, Chiến lược Quốc gia về phòng, chống kháng thuốc giai đoạn 2023-2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ngày 15/11/2014, Bộ Y tế đã ban hành Kế hoạch hành động phòng, chống kháng thuốc trong y tế giai đoạn 2024-2025 với 4 mục tiêu quan trọng.
Đào Thu Trang, Giám đốc Dự án Quỹ Fleming tại Việt Nam, Tổ chức FHI 360 tại Việt Nam cho biết, thế giới đặt ra mục tiêu giảm 10% tỷ lệ tử vong do kháng thuốc. Đây là kế hoạch tham vọng nhưng thế giới đang nỗ lực thực hiện mục tiêu này.
“Hiện trên thế giới có 165 quốc gia đã và đang xây dựng kế hoạch phòng, chống kháng thuốc, 20 quốc gia cung cấp tài chính thường xuyên, 29 quốc gia đã xây dựng kế hoạch hành động và ngân sách, 27 quốc gia có kế hoạch phòng chống kháng thuốc, 44 quốc gia đang xây dựng kế hoạch này”, bà Trang nói. Theo bà Trang, hiện Việt Nam chưa có nguồn tài chính đi kèm nhưng đang triển khai kế hoạch phòng, chống kháng thuốc một cách mạnh mẽ.
Tin khác đã đăng
- Nỗ lực 10 năm chống kháng kháng sinh tại Việt Nam 13/02/2025
- Kháng kháng sinh diễn biến khó lường trong điều trị bệnh do não mô cầu 13/02/2025
- Kế hoạch hành động phòng, chống kháng thuốc trong y tế giai đoạn 2024-2025 12/02/2025
- Hàng triệu người tử vong mỗi năm do vi khuẩn kháng thuốc 11/02/2025
- Hậu quả của thói quen tự ý sử dụng kháng sinh cho trẻ 10/02/2025
There are no comments yet